Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kế hoạch số 04-KH/TW, Nghị quyết số 25/NQ-CP và Chương trình hành động số 145-CTr/BCSĐTNMT của Ban Cán sự đảng Bộ TN&MT đã phản ảnh rõ nét công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của Bộ và ngành TN&MT.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ (sau đây gọi tắt là Nghị quyết Trung ương khóa XII); Kế hoạch số 04-KH/TW ngày 16/11/ 2016 của Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (sau đây gọi tắt là Kế hoạch 04-KH/TW); Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 08/02/2017 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (sau đây gọi tắt Nghị quyết số 25/NQ-CP), Ban Cán sự đảng Bộ, Đảng ủy Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Chương trình hành động số 145-CTr/BCSĐTNMT ngày 02/02/2017 thực hiện Nghị quyết Trung ương khóa XII và nhiều văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Về ưu điểm
Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngành tài nguyên và môi trường đã tập trung triển khai, thực hiện nhiều giải pháp tổng thể, hữu hiệu để quản lý chặt chẽ, phát huy các nguồn lực tài nguyên; bảo vệ môi trường và triển khai các giải pháp tổng thể để ứng phó với biến đổi khí hậu cho phát triển bền vững.
Về thể chế chính sách, toàn ngành đã chuyển một bước từ bị động khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết sang chủ động tham mưu giải quyết các vướng mắc, gỡ bỏ điểm nghẽn, rào cản về cơ chế chính sách, qua đó giải phóng nguồn lực tài nguyên cho phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường nâng cao chất lượng môi trường sống của người dân. Nhiều chủ trương chiến lược trong Văn kiện Đại hội đảng các cấp, Nghị quyết của Đảng, Kết luận của Bộ Chính trị, các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đã được Bộ, Ngành chủ động đề xuất xây dựng và ban hành làm căn cứ để kiến tạo cho phát triển đất nước. Đặc biệt mới đây, Luật Bảo vệ môi trường đã được Quốc hội thông qua, góp phần giải quyết hài giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng các nguồn tài nguyên cho giai đoạn phát triển mới. Hệ thống chủ trương, giải pháp về phát triển kinh tế biển được hoàn thiện từ Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương đến Kế hoạch hành động của Chính phủ.
Nguồn lực tài nguyên được phát huy hiệu quả cho phát triển đất nước. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực đất đai, trong đoạn 2016-2020, đã chuyển dịch hơn 230 nghìn ha đất cho phát triển kết cấu hạ tầng, công nghiệp, dịch vụ, đô thị và nhà ở; đưa 926 nghìn ha đất chưa sử dụng vào sử dụng chủ yếu cho phát triển rừng. Thu hồi, yêu cầu đưa vào sử dụng gần 100 nghìn ha đất của các dự án chậm triển khai. Nguồn thu từ tài nguyên đất trong 5 năm đạt gần 850 nghìn tỷ đồng. Triển khai thực hiện công tác điều tra tìm kiếm nguồn nước phục vụ dân sinh vùng hạn mặn, vùng cao, biên giới, hải đảo. Nghiên cứu giải pháp trữ nước cho đồng bằng sông Cửu Long. Các giải pháp tổng thể về quản lý sử dụng bền vững tài nguyên nước đảm bảo an ninh nguồn nước được tập trung triển khai. Đã hoàn thành công tác lập bản đồ địa chất, khoáng sản cho 70% diện tích đất liền; 40% vùng biển Việt Nam, xác định tiềm năng, giá trị địa chất, khoáng sản cho phát triển kinh tế xã hội. Khắc phục tình trạng xuất khẩu khoáng sản thô; khai thác khoáng sản không đi đôi với bảo vệ môi trường; thiết lập hành lang pháp lý trong phối hợp xử lý vi phạm trong khai thác thác cát sỏi lòng sông.
Bảo vệ môi trường đã có đổi mới toàn diện tư duy quản lý, chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động kiểm soát, bảo vệ môi trường, để các dự án lớn hoạt động an toàn về môi trường đóng góp cho tăng trưởng; nhận thức và hành động của các cấp, các ngành, người dân và doanh nghiệp về bảo vệ môi trường được cải thiện.
Ứng phó với biến đổi khí hậu được chủ động triển khai cùng với công tác dự báo khí tượng thuỷ văn được tăng cường, hiện đại hoá, nâng cao chất lượng để tiệm cận với các nước tiên tiến trong khu vực, qua đó góp phần giảm thiểu thiệt hại của thiên tai nhờ dự báo sớm, chính xác, kịp thời cảnh báo các hiện tượng thời tiết cực đoan.
Phát triển kinh tế biển được thúc đẩy trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển và hội nhập quốc tế; khu vực ven biển đóng góp 60% GDP cả nước. Công tác điều phối, phối hợp triển khai các đề án điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường biển và hải đảo, các nhiệm vụ khảo sát, nghiên cứu khoa học về biển được đẩy mạnh triển khai thực hiện; Mạng lưới trạm quan trắc KTTV, môi trường, nền tảng số hóa, dữ liệu lớn như dữ liệu đất đai, không gian địa lý được tăng cường.
Công các xây dựng Chính phủ điện tử, chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính của Bộ có những bước tiến quan trọng; hệ thống điều hành thông minh kết nối từ Trung ương tới địa phương; kết nối trực tuyến quốc tế. Sớm về đích hoàn thành chỉ tiêu cải cách thủ tục hành chính với 80,1% thủ tục được bãi bỏ, thay thế; 62,6% điều kiện đầu tư kinh doanh được cắt giảm; 50% số mặt hàng thuộc danh mục kiểm tra chuyên ngành, góp phần tiết kiệm được khoảng 1.047 tỷ đồng/năm. Chỉ số tiếp cận đất đai (một trong những chỉ số khó tăng do sự hữu hạn của đất đai) tăng 1,05 điểm, chỉ số hài lòng về dịch vụ cấp Giấy chứng nhận tăng 13% so với năm 2016; chỉ số hài lòng với thủ tục về môi trường tăng 3.08% so với năm 2017; tỷ lệ phản ánh có tiêu cực trong thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận giảm 34%. Chỉ số Đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản đạt mức 60/190 nước được đánh giá.
Với việc xác định rõ và thực hiện các nội dung đột phá và nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, tinh thần trách nhiệm, kỷ cương hành chính của cán bộ, đảng viên được nâng cao; tiến độ và chất lượng giải quyết công việc đã được cải thiện rõ rệt; hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường đã có những chuyển biến tích cực, được người dân, doanh nghiệp đánh giá cao, thể hiện qua các chỉ số đánh giá về CCHC, SIPAS, PAPI như nêu trên.
Những kết quả, thành tựu mà Bộ TN&MT đạt được trong thời gian qua đã được lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đánh giá, ghi nhận và biểu dương; được nhiều Đoàn công tác của Trung ương đánh giá cao, như: Đoàn Kiểm tra theo Quyết định số 717-QĐNS/TW ngày 29/3/2018 của Bộ Chính trị kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW tại Ban Cán sự đảng Bộ TN&MT; Đoàn kiểm tra liên ngành gồm Đảng ủy Công an Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng và Ban Kinh tế Trung ương tiến hành kiểm tra việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”; Đoàn công tác của Ban Nội chính Trung ương về việc kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng tại Ban Cán sự đảng Bộ TN&MT.
Một số tồn tại, khó khăn và thách thức
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, còn một số tồn tại, khó khăn và thách thức như:
Tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, không thống nhất, không đồng bộ giữa pháp luật về quản lý tài nguyên với các pháp luật khác có liên quan như pháp luật Doanh nghiệp, Đấu thầu, Xây dựng, Nhà ở, quản lý và sử dụng tài sản công, pháp luật về lâm nghiệp, pháp luật về thủy lợi…, gây khó khăn cho tổ chức thực hiện ở địa phương và làm giảm hiệu lực, hiệu quả của các quy định của pháp luật. Một số chủ trương lớn như chính sách thuế về đất đai để điều tiết theo cơ chế thị trường chậm được ban hành.
Công tác lập quy hoạch nhất là quy hoạch đất đai thiếu tầm nhìn dài hạn cùng với việc chưa giải quyết hài hòa lợi ích giữa nhà nước, người sử dung đất và nhà đầu tư trong thu hồi, bồi thường hỗ trợ, tái định cư dẫn đến chậm tiến độ mặt bằng cho triển khai các dự án đầu tư và chuyển dịch đất đai theo hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa, phát triển hệ thống hạ tầng đồng bộ. Khiếu kiện liên quan đến bồi thường có xu hướng giảm so với trước đây nhưng vẫn chiếm tỷ lệ lớn.
Việc tổ chức thực thi pháp luật chưa hiệu quả; chưa quyết liệt mặc dù pháp luật đã có quy định cụ thể và theo phân cấp thẩm quyền cho ủy ban nhân dân; cùng một quy định nhưng có địa phương làm tốt, có địa phương làm chưa tốt vẫn còn tình trạng đùn đẩy lên cấp trên.
Thách thức về an ninh nguồn nước đang là vấn đề lớn trong bối cảnh lượng nước sinh ra ở phần lãnh thổ Việt Nam chỉ chiếm khoảng 37% (310-315 tỷ m3/năm), nhu cầu về nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất sẽ tăng nhanh.
Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đặt ra yêu cầu phải thực hiện các cam kết về môi trường; do đó cần có lộ trình để nâng cao các tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường; lộ trình chuyển đổi công nghệ các cơ sở sản xuất lạc hậu gây nguy cơ ô nhiễm môi trường cao. Sự gia tăng của chất thải, khí thải, nước thải áp lực lớn lên vấn đề môi trường sẽ chưa giảm trong thời gian ngắn.
Biến đổi khí hậu, thiên tai diễn biến nhanh; các tác động dài hạn đã được dự báo, nhận diện, tuy nhiên những tác động ngắn hạn là khó lường, khó dự báo. Tình trạng thiếu nước, hạn hán, thiên tai sẽ còn tiếp diễn nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Kinh phí thực hiện nhiệm vụ giảm dần, trong giai đoạn 2016-2020 kinh phí cho thực hiện các hoạt động kinh tế của Bộ TN&MT trung bình 1.535 tỷ đồng/năm, đến năm 2021 còn 1.228 tỷ đồng (giảm dần 10%/năm), không đảm bảo nguồn lực thực hiện nhiệm vụ quan trọng, cấp bách đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao các nhiệm vụ, dự án đều phải dãn tiến độ hoặc tạm dừng thực hiện.
Chức năng, nhiệm vụ của Bộ vẫn còn có sự giao thoa với các Bộ, ngành khác (Về lĩnh vực đất đai, tài nguyên nước, bảo tồn đa dạng sinh học vẫn còn có sự giao thoa với Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Hệ thống tổ chức bộ máy của ngành còn nhiều bất cập (Một số tổ chức bộ máy đã được quy định tại các Luật chuyên ngành nhưng chưa được triển khai đồng bộ, ví dụ như: Trung tâm phát triển quỹ đất; Văn phòng đăng ký đất đai; mô hình quản lý liên vùng, liên ngành pháp luật đã có quy định nhưng trên thực tế triển khai còn nhiều vướng mắc, ví dụ như quản lý lưu vực sông, biến đổi khí hậu…); nhân lực quản lý của ngành còn chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ (Mặc dù đã được giao thêm 07-08 lĩnh vực quản lý, nhưng biên chế của Sở Tài nguyên và Môi trường trung bình năm 2020 là 53 người, mới chỉ tăng thêm 13 người so với thời điểm trước thành lập (Sở Địa chính trước đây, trung bình có 40 người), nhiều tỉnh chỉ có từ 36-38 người; biên chế trung bình của Phòng Tài nguyên và Môi trường trung bình chỉ có 06-07 người, nhiều huyện chỉ có 03-04 người) trong khi biên chế vẫn bị cắt giảm theo chủ trương tinh giảm biên chế.
Nguyên nhân của hạn chế
Bộ TN&MT đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, các Nghị quyết, Kết luận, Chỉ thị của Trung ương. Tuy nhiên, qua quá trình tổ chức thực hiện vẫn còn một số tồn tại, thách thức như nêu trên, do một số nguyên nhân chính như sau:
Yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý về tài nguyên và môi trường ngày càng lớn, phát sinh nhiều vấn đề có tính liên ngành, liên vùng cần được giải quyết, song tổ chức bộ máy đang từng bước kiện toàn, trong khi phải thực hiện chính sách tinh giản biên chế là một thách thức lớn của Ngành; nguồn lực (tài chính, nhân lực, công nghệ…) nhất là cho công tác điều tra cơ bản còn hạn chế, chưa tương xứng.
Một số chính sách, pháp luật về tài nguyên và môi trường chưa theo kịp với yêu cầu của thực tiễn, còn khoảng trống; các công cụ kinh tế chưa được phát huy trong quản lý, điều tiết các nguồn lực; vai trò giám sát của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân trong công tác quản lý, giám sát khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu chưa được phát huy hết. Công tác hiện đại hoá ngành chưa đồng bộ, mới chỉ tập trung ở cấp Trung ương, cấp tỉnh.
Nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường được phân cấp mạnh, nhưng năng lực thực thi và tổ chức bộ máy còn bất cập; quá trình thực thi của nhiều địa phương chưa hiệu quả; một số quy định đã được ban hành nhưng triển khai trên thực tế còn chưa đồng bộ. Còn một số vụ việc khiếu nại, tố cáo chưa được giải quyết dứt điểm từ địa phương cơ sở, dẫn đến khiếu kiện vượt cấp, nhiều nơi trở thành điểm nóng.
Đề xuất, kiến nghị
Bộ Tài nguyên và Môi trường kiến nghị Ban Cán sự đảng Chính phủ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét một số nội dung sau:
Chỉ đạo rà soát, xử lý kịp thời những mâu thuẫn, chồng chéo giữa quy định của pháp luật về tài nguyên và môi trường với các pháp luật có quy định liên quan theo nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính.
Quan tâm bố trí nguồn lực để đáp ứng yêu cầu quản lý, theo kịp trình độ phát triển và mức độ gia tăng về quy mô và tính chất phức tạp của các vấn đề về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu.
Tiếp tục quan tâm củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy để đáp ứng yêu cầu liên vùng liên ngành, quản lý tập trung, thống nhất ở Trung ương; không cắt giảm biên chế đối với ngành tài nguyên và môi trường, chỉ đạo rà sát, bố trí biên chế quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường theo vị trí việc làm và tương xứng với nhiệm vụ.